Chúng tôi xin giới thiệu bài viết "Lợi nhuận thu được từ đầu tư tiền ảo có phải đóng thuế hay không?" của tác giả Đinh Minh Tuấn - FCCA. Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Mời quý độc giả tham khảo.
Thời gian gần đây rất nhiều nhà đầu tư cá nhân, tổ chúc đổ xô đi kinh doanh tiền điện tử/tiền mã hóa/tiền ảo (“tiền ảo”) và không ít những cá nhân đầu tư này có thu lợi lớn từ các thương vụ chốt lời khi các đồng tiền tăng mạnh đặc biệt trong thời gian dịch Covid đang diễn ra, dòng tiền được dịch chuyển tìm vào các kênh đầu tư có thể mang lại lợi nhuận cao và tất nhiên đi kèm là rủi ro cũng không hề nhỏ.
Mặc dù hiện này chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định tiền ảo là hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng Việt Nam và cũng chưa có khung pháp lý dành cho các hoạt động kinh doanh mua bán, quản lý tiền ảo, nhưng dưới góc độ thuế thì các nhà đầu tư này có phải gánh chịu các khoản thuế khi tạo ra lợi nhuận hay không?
Tiền ảo là đơn vị tiền tệ, hàng hóa hay là tài sản?
Căn cứ vào công văn số 5747/NHNN-PC ngày 21 tháng 7 năm 2017 trả lời về vấn đề xác định tính hợp pháp của tiền ảo như sau: "Tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm, như vậy tại thị trường Việt Nam tiền ảo không được xem là tiền tệ và có chức năng như tiền tệ.
Theo quy định của Bô Luật Dân sự 2015, tài sản là "vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản", và trong đó "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác".
Ngoài ra, theo định nghĩa Chuẩn Mực Số 4 "Tài sản cố định", Tài sản là một nguồn lực mà (1) Doanh nghiệp có thể kiểm soát được và (2) dự tính đem lại lợi ích trong tương lai cho doanh nghiệp và tài sản vô hình là "Là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình"
Dựa trên quy định trên có thể xem xét tiền ảo là tài sản ("quyền tài sản") của cá nhân hoặc doanh nghiệp nắm giữ và có thể mang lại lợi ích trong tương lai nhờ vào việc nắm giữ tài sản này. Riêng với thị trường Mỹ, tiền ảo được xem là một dạng tiền tệ phi tập trung (Decentralized currency) và các Công ty nắm giữ (ví dụ: Tesla) đang trình bày dưới tài khoản "Tiền và tương đương tiền" trên báo cáo tài chính.
Nghĩa vụ thuế đối với các chủ thể tham gia: Nhà đầu tư đào tiền ảo, Nhà đầu tư kinh doanh Tiền ảo và Doanh nghiệp tham gia nắm giữ tiền ảo.
Dưới góc độ của Thuế để xác định các cá nhân và doanh nghiệp tham gia đầu tư/kinh doanh tiền ảo tương đối phức tạp và có khá nhiều sắc thuế sẽ áp dụng lên các đối tượng khác nhau và ít nhiều gây ra tranh cãi, chi tiết như sau:
(1) Đối với cá nhân kinh doanh tiền ảo
Theo hướng dẫn Thông tư số 92/2015/TT-BTC, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật có thu nhập từ 100triệu đồng/năm sẽ chịu thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng tùy thuộc vào loại hình kinh doanh, có 2 trường hợp xảy ra như sau:
- Cá nhân kinh doanh mua vào nắm giữ các loại tiền này và không thực hiện việc bán chốt lời thì về nguyên tắc cá nhân này sẽ chưa chịu thuế thu nhập cá nhân ("TNCN") và thuế giá trị gia tăng ("GTGT") theo quy định Thông tư 92; và
- Cá nhân kinh doanh mua vào và thực hiện việc bán chốt lời và có thu nhập từ việc kinh doanh này lớn hơn 100 triệu đồng/năm sẽ chịu 1% thuế Thu nhập cá nhân và 2% thuế giá trị gia tăng.
Ngoài việc thực hiện nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp ("TNDN") theo quy định thông tư 92/2015 thì các cá nhân kinh doanh có thể phải đối mặt với rủi ro chịu thêm 1 khoản thuế nhà thầu theo quy định ở Thông tư 103/2014/TT-BTC như sau:
"Tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung là Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài) kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa Nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa Nhà thầu nước ngoài với Nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của Hợp đồng nhà thầu"
Theo quy định ở thông tư này, các tổ chức phát hành các loại tiền ảo có thu nhập tại Việt Nam thông qua việc các cá nhân/tổ chức ở trong nước thanh toán để nắm giữ tài sản này sẽ chịu các loại thuế tại thị trường Việt nam, với mức thuế suất hiện hành đối với loại hình mua/bán tài sản là 1% trên tổng giao dịch mua vào.
(2) Đối với tổ chức kinh doanh tiền ảo
Theo quy định tại luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 quy định đối tượng chịu thuế TNDN là các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định sẽ chịu đóng thuế ở mức 20% theo quy định hiện hành. Như vậy trong trường hợp các tổ chức có hoạt động kinh doanh có lợi nhuận thu được từ hoạt động này sẽ chịu thuế hiện hành tương tự các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra thu nhập khác.
Ngoài ra tương tự các cá nhân kinh doanh, thì tổ chức kinh doanh khi nắm giữ tài sản này sẽ chịu thuế nhà thầu 1% trên tổng giá trị mua vào theo từng lần khi thực hiện các giao dịch nắm giữ các tài sản tiền ảo.
(3) Đối với các cá nhân/tổ chức đầu tư đào tiền ảo
Tiền ảo (tiền điện tử/tiền mã hóa) được phát hành dưới dạng mã nguồn mở, có tính bảo mật cao, xuất hiện và được phân chia hoàn toàn tự động dựa trên các thuật toán, do đó, các cá nhân/tổ chức trên toàn thế giới có thể xây dựng hệ thống để khai thác loại tiền này hay còn gọi là "Đào", ví dụ: Đào Bitcoin…Việc đào các tiền ảo này không hề đơn giản, rất tốt chi phí năng lượng và các chi phí khác và thậm chí đôi lúc không có lợi nhuận khi khai thác đồng tiền này.
Đối với các nhân thu nhập từ việc khai thác tiền ảo sau khi trừ đi các chi phí phục vụ công tác khai thác này (nếu có hóa đơn, chứng từ đầy đủ) nếu có thu nhập lớn hơn 100 triệu đồng/năm sẽ chịu các loại thuế Giá trị gia tăng và thuế TNCN theo quy định tại thông tư 92/2015/TT-BTC.
Ngược lại đối với tổ chức đây được xem là hoạt động không liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, các chi phí đầu vào có thể đầy đủ hóa đơn chứng từ theo quy định cũng sẽ không được xem là chi phí được trừ khi tính thuế, do đó, toàn bộ thu nhập tạo ra từ việc khai thác tài sản này sẽ đánh thuế 20% theo quy định hiện hành.
Tóm lại, hoạt động kinh doanh và đầu tư tiền ảo đang có nhu cầu rất lớn và hiện được rất nhiều cá nhân/tổ chức tham gia, tuy nhiên do tính hợp pháp của tiền ảo chưa được thông qua, bởi vậy có thể làm cho ngân sách nhà nước mất đi nguồn thu lớn từ hoạt động này.
Đinh Minh Tuấn - FCCA - Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị
Tin nổi bật Tài chính